Trong hành trình gần 70 năm, kể từ khi nước nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 02 tháng 9 năm 1945, thì Việt Nam đã có hơn 30
năm trải qua chiến tranh vệ quốc vô cùng khốc liệt. Ngày nay, cả thế giới biết
đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam như một bằng chứng về sự thành công chuyển đổi
kinh tế trong lịch sử đương đại. Tuy vẫn là một nước nghèo, nhưng qua 20 năm
tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử.
Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố
và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững.
Vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của
quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi
lên với triển vọng tốt đẹp.
Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định thực
hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh
tế. Đường lối đổi mới của Đảng đã tác động tích cực đến sự phát triển của các
ngành sản xuất và dịch vụ. Tuy nhiên, những thành tựu và khởi sắc của công
nghiệp thực sự bắt đầu trong những năm 90 (thế kỷ XX). Bình quân 5 năm
1991-1995 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành đạt 13,7%,
vượt xa kế hoạch đề ra (7,5%-8,5%); trong đó khu vực kinh tế Nhà nước tăng 15%,
khu vực ngoài quốc doanh tăng 10,6%. Trong 5 năm 1996-2000, sản xuất công
nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển ổn định và tăng trưởng với nhịp độ cao. Giá
trị sản xuất công nghiệp năm 1996 tăng 14,2%, năm 1997 tăng 13,8%, 1998 tăng
12,1%, 1999 tăng 10,4% và năm 2000 tăng 17,5%. Nếu so với năm 1990, giá trị sản
xuất công nghiệp năm 2004 tăng gấp 6,5 lần, nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng
năm đạt 14,3%. 6 tháng đầu năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 205,3
nghìn tỷ đồng, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó khu vực doanh
nghiệp Nhà nước tăng 9,7%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn tiếp tục duy trì
mức tăng cao 24,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9%.
Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất và
tiêu dùng của dân cư đều tăng cả chất lượng và số lượng, đáp ứng cơ bản nhu cầu
tiêu dùng trong nước và tham gia xuất khẩu. Năm 2004, than khai thác đạt 26,29
triệu tấn, gấp 5,7 lần năm 1990; điện sản xuất 46,05 tỷ kWh, gấp 5,24 lần; dầu
thô khai thác 20,05 triệu tấn, gấp 7,43 lần; xi măng 25,33 triệu tấn, gấp 10
lần; thép cán 2,93 triệu tấn, gấp 29 lần; phân hóa học 1,45 triệu tấn, gấp 4,1
lần ; giấy bìa 78,1 vạn tấn, gấp 10 lần; vải lụa 518,2 triệu mét, gấp 1,63 lần;
đường mật 1,37 triệu tấn, gấp 4,2 lần; lắp ráp ti vi 2,48 triệu chiếc, gấp 17,6
lần; quần áo may sẵn 784,05 triệu chiếc, gấp 6,26 lần ; xà phòng giặt 45,9 vạn
tấn, gấp 8,37 lần; ôtô lắp ráp 42,65 nghìn chiếc (năm 1990 chưa lắp ráp ôtô);
xe máy lắp ráp 1,57 triệu chiếc (năm 1990 chưa lắp ráp xe máy).
Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp
những năm cuối của thập kỷ 90 đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm với
sự tham gia của các thành phần kinh tế quốc doanh, ngoài quốc doanh và công
nghiệp có vốn FDI, trong đó công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Công nghiệp FDI do có lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị
trường xuất khẩu khá ổn định, lại được Nhà nước khuyến khích bằng các cơ chế
chính sách ngày càng thông thoáng, nên trong những năm qua phát triển khá nhanh
và ổn định hơn hẳn khu vực công nghiệp trong nước. Tính đến nay đã có hơn 5.000
dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 45 tỷ USD.
Các doanh nghiệp này đóng góp gần 15% GDP, chiếm hơn 30% tổng kim ngạch xuất
khẩu, đóng góp 4,9% tổng thu ngân sách Nhà nước và tạo ra hàng vạn công ăn việc
làm.
Ngoài giá trị về kinh tế, công nghiệp FDI còn tạo thêm hàng triệu việc làm, góp
phần bổ sung và hoàn thiện các mô hình quản lý và tổ chức sản xuất mới phù hợp
với cơ chế thị trường ở Việt Nam. Mô hình khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN,
KCX) chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp với các ngành sản phẩm mũi
nhọn, có chất lượng cao, phục vụ xuất khẩu. Đến nay, cả nước có 122 KCN được
cấp giấy phép họat động. Sự tham gia của công nghiệp FDI nói chung và các KCN
nói riêng đã tạo ra sức cạnh tranh cần thiết thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế Việt Nam đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị, áp
dụng công nghệ hiện đại để giảm chi phí sản xuất, tăng chất lượng sản phẩm, đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Do nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao liên tục trong
nhiều năm nên tích luỹ của nền kinh tế ngày càng mở rộng. Năm 1990 tỷ lệ tích
luỹ tài sản trong sử dụng tổng sản phẩm trong nước chiếm 14,36%; đến năm 2004
tỷ lệ này đạt 35,58%.
Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ
đổi mới là phát triển sản xuất nông nghiệp mà nội dung cơ bản là khoán gọn đến
hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đã
đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn Việt Nam.
Ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 10 NQ/TW đổi mới
quản lý kinh tế nông nghiệp. Cùng với Nghị quyết 10, Đảng và Nhà nước có nhiều
chủ trương, chính sách đổi mới khuyến khích nông nghiệp và kinh tế nông thôn
phát triển theo hướng kinh tế hàng hoá và đã đạt được những thành tựu quan
trọng, nhất là 10 năm trong thập kỷ 90.
Thành tựu nổi bật và to lớn nhất của nông nghiệp trong
15 năm đổi mới là đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất
khẩu gạo lớn thứ hai thế giới liên tục từ năm 1989 đến nay. Nếu sản lượng lương
thực có hạt năm 1990 chỉ đạt 19,90 triệu tấn thì đến năm 2004 đã tăng lên 39,32
triệu tấn. Như vậy, sau 15 năm, sản lượng lương thực có hạt đã tăng thêm 19,4
triệu tấn, bình quân mỗi năm tăng thêm 1,29 triệu tấn. Do sản xuất lương thực
tăng nhanh, Việt Nam không những đã bảo đảm được nhu cầu tiêu dùng trong nước
mà còn dành khối lượng khá lớn cho xuất khẩu. Nếu năm 1989, xuất khẩu được 1,42
triệu tấn gạo thì đến năm 2004 đạt 4,06 triệu tấn, đưa Việt Nam vào hàng các
nước đứng đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới. Ngành chăn nuôi cũng có bước phát
triển nhanh. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi năm 2004 so với năm 1990 tăng gấp
2,28 lần; nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 6,06%.
Với phương châm Việt Nam muốn làm bạn và đối tác tin
cậy với tất cả các nước. Tính tới tháng 7/2000, Việt Nam ký Hiệp định thương
mại với 61 nước, trong đó có Mỹ, đưa tổng số nước có quan hệ ngoại thương với Việt
Nam từ 50 nước năm 1990 lên 170 nước năm 2000. Năm 2004, tổng mức lưu chuyển
ngoại thương Việt Nam đạt 54,46 tỷ USD (tăng gấp 11,34 lần so với mức 5,10 tỷ
USD năm 1990); trong đó xuất khẩu 26,50 tỷ USD tăng 11,02 lần; nhập khẩu 31,95
tỷ USD, tăng gấp 11,61 lần. Nhịp độ tăng bình quân hàng năm tổng mức lưu chuyển
ngoại thương thời kỳ 1991-2004 đạt 18,94% trong đó xuất khẩu 18,70%; nhập khẩu
19,14%.
Nhờ kinh tế đạt mức tăng trưởng cao và liên tục nhiều
năm liền nên đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của dân cư được cải thiện
rõ rệt.
Sự nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số
từ 10 tuổi trở lên biết đọc, biết viết đã tăng từ 88% năm 1989 lên 91% năm
1999. Năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ
cập giáo dục tiểu học. Giáo dục trung học chuyên nghiệp và đại học có bước mở
rộng nhanh về quy mô đào tạo. Năm 1990 Việt Nam có 105,9 nghìn học sinh trung
học chuyên nghiệp, tính bình quân cho 1 vạn dân có 16 học sinh; thì đến năm
2004 là 465.300 và 97 học sinh. Năm 2004 so với năm 1990, số học sinh trung học
chuyên nghiệp tăng 4,39 lần. Giáo dục đại học, cao đẳng năm 1990 có hơn 93.000
sinh viên đại học, cao đẳng, tính bình quân 1 vạn dân có 14 sinh viên thì đến
năm 2004 là 1.319.800 sinh viên và 161 sinh viên. Năm 2004 so với năm 1990 số
sinh viên đại học, cao đẳng tăng gấp 14,2 lần.
Sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan
tâm. Hệ thống y tế đã được phát triển từ tuyến cơ sở tới trung ương với nhiều
loại hình dịch vụ y tế đã tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn các dịch vụ
y tế phù hợp. Năm 1990, tính bình quân 1 vạn dân có 3,5 bác sĩ; đến năm 2004 là
6,1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi năm 1990 từ 51,5%; đến năm
2004 còn 26,7%. Chỉ số về sức khoẻ bà mẹ và trẻ em có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ tử
vong của trẻ em đã giảm xuống bằng với mức phổ biến ở những nước có thu nhập
đầu người cao gấp 2-3 lần Việt Nam. Năm 2003 tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1
tuổi chỉ còn 26%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 64 tuổi năm 1990 lên 68 tuổi năm
2000.
Cùng với thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, Việt Nam
đã đạt được những kết quả xuất sắc trong xóa đói giảm nghèo. Chủ trương của
Đảng và Nhà nước ưu tiên phát triển nông nghiệp và nông thôn, vùng sâu, vùng xa
đã thành công trong việc giải phóng sức sản xuất của dân cư nông thôn và khuyến
khích họ tự mình phấn đấu cải thiện cuộc sống. Tính theo chuẩn nghèo chung, tỷ
lệ nghèo đã giảm từ trên 70% năm 1990 xuống còn 32% năm 2000 và 28,9% vào năm
2001-2002. Như vậy so với năm 1990, năm 2000 Việt Nam đã giảm 1/2 tỷ lệ nghèo
và về điều này Việt Nam đã đạt được mục tiêu phát triển của Thiên niên kỷ do
Quốc tế đặt ra là giảm một nửa tỷ lệ đói nghèo trong giai đoạn 1990-2015.
Giai đoạn 2005 đến nay
Việt Nam bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006
- 2010 trong bối cảnh có nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đều
lớn, đan xen nhau.
Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo;
toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ được đẩy nhanh; đầu tư, lưu chuyển
hàng hoá, dịch vụ, lao động và vốn ngày càng mở rộng. Kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, hợp tác trong khu vực, nhất là ASEAN
ngày càng mở rộng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mỗi quốc
gia.
Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực vẫn chứa đựng nhiều yếu tố phức
tạp, khó lường; các tranh chấp, xung đột cục bộ, cùng với hoạt động khủng bố
quốc tế có thể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Các vấn đề
mang tính toàn cầu như dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm các nguồn năng
lượng và nguyên vật liệu, khoảng cách giàu nghèo... càng trở nên gay gắt hơn.
Ở trong nước, Việt Nam có được thuận lợi rất cơ bản là những thành
tựu to lớn và những bài học kinh nghiệm quan trọng sau 20 năm đổi mới, nhưng
cũng còn nhiều yếu kém, khuyết điểm; trong khi yêu cầu hội nhập với nền kinh tế
khu vực và thế giới ngày càng khẩn trương và sâu rộng hơn. Đời sống dân cư nhìn
chung ổn định. Đời sống của cán bộ, viên chức và người hưởng lương đã được cải
thiện đáng kể nhờ tăng lương theo các Nghị định của Chính phủ. Đời sống đại đa
số nông dân ổn định và từng bước được cải thiện do sản xuất phát triển và giá
nhiều loại nông sản, thực phẩm tăng. Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và nhiều địa
phương tiếp tục giảm, tình trạng thiếu đói giáp hạt giảm đáng kể so với năm 2005.
Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu
vực.
Bước vào giai đoạn mới, thế và lực của nền kinh tế Việt Nam cũng như những
kinh nghiệm tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đều đã được tăng lên đáng kể. Việc Việt Nam trở thành thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo thêm cơ hội để nền kinh tế Việt
Nam hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào kinh tế thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam cũng
gặp nhiều khó khăn, thách thức: trong khi nền kinh tế còn nhiều mặt yếu kém,
chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh thấp thì
giá của nhiều loại vật tư nguyên liệu đầu vào quan trọng phải nhập khẩu tăng
cao.
Trong giai đoạn này và tác động từ suy thoái kinh tế
toàn cầu, kinh tế-xã hội Việt Nam năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế
giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường: giá dầu thô và giá nhiều loại
nguyên liệu, hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng
giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm
phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu dẫn
đến một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm; ở trong nước
thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống
dân cư. Tuy nhiên, năm 2008, GDP theo giá so sánh 1994 ước tính vẫn tăng 6,23%
so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu
vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Trong 6,23%
tăng trưởng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng
góp 0,68 điểm phần trăm; công nghiệp, xây dựng đóng góp 2,65 điểm phần trăm và
dịch vụ đóng góp 2,9 điểm phần trăm. Trong bối cảnh khó khăn gay gắt thì đây là
một cố gắng rất lớn. Cũng trong năm này, có 8 nhóm hàng/mặt hàng xuất khẩu đạt
kim ngạch trên 2 tỷ USD là: Dầu thô 10,5 tỷ USD; hàng dệt may 9,1 tỷ USD; giày,
dép 4,7 tỷ USD; thuỷ sản 4,6 tỷ USD; gạo 2,9 tỷ USD; sản phẩm gỗ 2,8 tỷ USD;
điện tử, máy tính 2,7 tỷ USD; cà phê 2 tỷ USD, tăng 2 mặt hàng so với năm 2007
là gạo và cà phê.
Từ đầu năm 2009 đến nay, kinh tế- xã hội Việt Nam tuy
bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, tài chính thế giới nhưng với tinh thần chủ
động sáng tạo của các doanh nghiệp, cơ sở kinh tế và nhờ việc thực hiện đồng bộ
các chính sách, giải pháp đúng đắn và kịp thời của Trung ương Đảng, Chính phủ
nên đang phát triển theo hướng tích cực và đang có dấu hiệu phục hồi. Sản xuất
công nghiệp từng bước ổn định và tiếp tục tăng, nhiều sản phẩm quan trọng vẫn
giữ được mức tăng cao. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều tăng về lượng. Chỉ số
giá tiêu dùng tăng ở mức hợp lý. Đời sống nhân dân tiếp tục được quan tâm và
cải thiện.
Hiện nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 176 quốc
gia, quan hệ kinh tế thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong
đó khoảng 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam... Chưa
bao giờ mối quan hệ ngoại giao và kinh tế của Việt Nam lại phát triển sâu rộng
và đa dạng như ngày nay.
(Nguồn: Chính phủ - Cổng thông tin điện tử Chính phủ www.chinhphu.vn)
|